Ở cái làng nghèo ven sông Hậu, nơi người ta quý con g.ái hơn vàng mười, có một luật bất thành văn: nhà nào có con g.ái đến tuổi cập kê, hẳn sẽ như có của trời cho. Còn con trai đến tuổi lấy vợ thì cứ gọi là khốn đốn. Bởi trong cái vùng đất mà dân s.ố nữ luôn thấp hơn nam, muốn cưới được vợ cho con trai là phải có t.iền, có đất, có của hồi môn đàng hoàng, thậm chí là cả… lời lãi vay mượn chất chồng.
Gia đình ông Tám là một điển hình. Vợ m.ất sớm, ông một mình nuôi hai đứa con trai là Hùng và Dũng kh.ôn lớn bằng nghề nông cày cấy. Mỗi người con ông đều mong có mái ấm riêng, nhưng đời nghèo khổ, cái ăn còn chạy từng bữa thì cưới vợ l.àm sao?
Mãi đến khi Hùng hai mươi tám, Dũng hai mươi lăm, ông Tám mới gom góp đủ t.iền để… cưới được một cô vợ. Nhưng chỉ một. Cả làng xôn xao. Làng này có cô Lan – con g.ái của bà Tư bán hàng ngoài chợ – vừa đẹp người, vừa nết na, nhưng nhà bà Tư cũng chẳng khá khẩm gì. Thế là sau một đợt se duyên thăm hỏi, bàn đi tính lại, đôi bên quyết định… gả Lan cho cả hai anh em.
Người ta xì xào, cười cợt, thậm chí dè bỉu cái đ.ám c.ưới “có một kh.ông hai” ấy. Nhưng rồi ai cũng hiểu, nghèo thì phải chịu, cưới được vợ cho cả hai đứa con trai đã là một kỳ tích.
Ngày cưới, Lan phải thay phiên đi tiếp khách với hai người chồng. L.úc khoác tay Hùng, l.úc lại cười duyên bên Dũng. Cô dâu như con thoi, mà trong lòng cô cũng rối bời. Lan kh.ông yêu ai trong hai người, nhưng cũng kh.ông có quyền chọn lựa. Lấy chồng kh.ông phải vì t.ình, mà vì chữ hiếu. Nhà có ba mẹ già, em thơ đang đi học, cô đành gật đầu.
T.ối hô.m ấy, trong căn nhà lợp mái lá đơn s.ơ, một đêm tân h.ôn diễn ra chẳng giống ai. Theo lệ làng, người anh sẽ vào phòng đầu tiên. Hùng dắt tay Lan bước vào buồng nhỏ. Dũng ngồi ngoài hiên, gió đêm thổi lạnh buốt lòng. Anh siết chặt tay, ánh mắt đăm đăm nhìn vào bóng đèn dầu leo lét bên trong.
Rồi tiếng động phát ra…
Ban đầu là tiếng gỗ kêu cọt kẹt. Rồi đột nhiên, “Rầm!” – một âm thanh như sập đổ. Tiếng hét của Hùng vang lên, sắc lạnh như dao cứa vào màn đêm. “Á… cứu tôi! Cứu tôi với!”
Dũng lao tới, ông Tám chạy theo sau. Cánh cửa phòng bị xô tung. Trong ánh sáng chập chờn, người ta nhìn thấy Hùng đang nằm sõng soài dưới sàn, mắt tr.ợn trừng, miệng sùi bọt mép. Lan quỳ bên cạnh, toàn thân run rẩy, hai tay bê bết máu.
“Trời ơi! Hùng ơi!” – ông Tám hét lớn.
Dũng lao đến đỡ anh mình dậy, nhưng đã quá muộn. Hùng kh.ông còn cử động. Mạch kh.ông còn đập. Bác sĩ xã sau đó x.ác nhận: Hùng ch:ết do đ.ột q.uỵ cấp – một căn bệnh bẩm s.inh chưa từng phát hiện.
Người làng lại được dịp bàn tán: “Trời phạt đó!”, “Tham thì thâm!”, “Cưới vợ chung có ngày gặp tai ương!”…
Lan thì như người m.ất hồn. Cô bị đưa về nhà mẹ đ.ẻ vài ngày để ổn định tâm lý. Còn Dũng – sau bi.ến cố ấy – trở nên ít nói, trầm mặc. Anh kh.ông k.hóc, nhưng ánh mắt luôn ánh lên nỗi đau nghẹn lại. Một phần vì m.ất anh trai, một phần vì từ hô.m đó, anh kh.ông dám c.hạm vào Lan, dù theo lý thì cô đã là vợ anh.
Ba tháng sau đám tang, Dũng và Lan mới chính thức về ở chung một nhà. Nhưng t.ình cảm giữa họ chẳng hề giống vợ chồng. Họ s.ống như hai cái bóng, lặng lẽ đi q.ua đ.ời nhau trong căn nhà cũ kỹ. Đôi l.úc, ông Tám nhìn họ mà chảy nước mắt: “Tụi bay khổ quá… Lỗi cũng tại cha mẹ nghèo…”
Ba tháng trôi qua, căn nhà ông Tám trở nên im lặng đến r.ợn người. Mọi tiếng cười đùa, mọi niềm vui nhỏ b.é cũng như bị ch.ôn theo Hùng trong cái ngày định mệnh ấy. Dũng vẫn ra đồng, vẫn lầm lũi l.àm lụng như một cái máy. Lan thì chỉ quanh quẩn trong nhà, giặt giũ, nấu cơm, chăm sóc ông Tám. Hai người s.ống cạnh nhau mà như xa cách ngàn trùng.
Ông Tám thấy rõ điều đó. Một đêm ông uống rượu rồi nói bâng quơ:
– Cha già rồi, chỉ mong có đứa cháu bồng bế. Tụi bay là vợ chồng mà s.ống như hai cái bóng vậy hoài thì…
Dũng kh.ông nói gì. Lan cúi m.ặt. L.úc đó, trong bụng cô… đã có một s.inh linh.
Một cái t.hai ba tháng tuổi.
Lan biết rõ. Cô biết ngay từ tháng đầu tiên. Nhưng cô giấu. Kh.ông phải vì sợ Dũng, mà vì… cô kh.ông chắc đứa trẻ trong bụng là con của ai.
Đêm tân h.ôn ấy, chỉ vỏn vẹn hơn 30 phút, nhưng cô đã thuộc về Hùng. Còn từ ngày đó đến giờ, Dũng chưa từng c.hạm vào cô. Người chồng trên danh nghĩa ấy đối xử với cô như người xa lạ, thậm chí còn lịch sự quá mức cần thiết.
Một hô.m, Lan đ.ánh bạo bước đến bên Dũng, tay đặt lên bụng:
– Em… có t.hai rồi.
Dũng sững người. Anh nhìn Lan rất lâu, ánh mắt như xuyên qua cả hình hài yếu ớt của cô. Rồi anh quay đi, giọng nghẹn lại:
– Em kh.ông cần nói thêm gì đâu. Anh biết.
Lan rưng rưng:
– Em kh.ông muốn giấu… nhưng em cũng kh.ông muốn l.àm anh đau. Em xin lỗi…
Dũng ngồi lặng thinh, tay siết chặt đến bật máu. Anh nói nhỏ:
– Đó là con của anh Hùng.
Lan gật đầu, rồi òa k.hóc.
Từ hô.m đó, Dũng thay đổi. Anh chăm sóc Lan nhiều hơn, nhưng kh.ông hề thân mật. Anh gọi cô là “chị dâu”, dù trước m.ặt người ngoài vẫn đóng vai người chồng. Ông Tám thấy hai đứa gần gũi hơn thì mừng lắm, cứ tưởng vết thương lòng đang lành lại.
Cho đến một hô.m, ông Tám dọn lại căn phòng của Hùng – vốn đã khóa cửa suốt mấy tháng – thì phát hiện ra một chiếc hộp nhỏ giấu dưới gối. Trong đó là một cuốn sổ tay, vài b.ức ảnh cũ, và một lá thư chưa gửi.
Lá thư viết bằng tay, chữ Hùng quen thuộc, nét mực vẫn còn mới:
“Gửi Dũng,
Nếu mày đọc được thư này, chắc tao đã kh.ông còn trên đời nữa. Tao xin lỗi. Tao đã biết mình mang bệnh tim từ năm 25 tuổi, nhưng tao giấu cả nhà. Tao kh.ông muốn l.àm gánh nặng. Tao cũng kh.ông ngờ nó lại c.ướp tao nhanh vậy…
Tao biết chuyện cưới vợ chung là điều vô lý, là bất công với cả ba người, nhưng mày l.úc nào cũng nhường tao, từ nhỏ đến lớn. Cái gì ngon cũng nhường. Giờ đến cả vợ… cũng nhường. Mày ngu lắm, Dũng à.
Nhưng tao cũng kh.ông dám s.ống lâu với cái ám ảnh rằng Lan… vốn thích mày. Tao thấy ánh mắt cô ấy nhìn mày. Kh.ông giống cách cô ấy nhìn tao. Cô ấy im lặng, nhưng đôi mắt biết nói. Tao là người đến sau trong trái tim cô ấy. Tao biết chứ. Nhưng tao tham. Tao ích kỷ. Tao sợ m.ất Lan nên mới nhận lời cưới chung.
Nếu Lan có con, hãy chăm sóc nó thay tao. Nhưng nếu nó là con mày… thì cũng t.ốt. Tao chỉ xin, đừng để đứa nhỏ lớn lên trong dằn vặt. Nó vô tội.
Tao thương mày. Mãi là em tao, là một phần đời tao kh.ông thể thiếu.
Anh của mày,
Hùng.”
Ông Tám đọc xong, nước mắt r.ơi lã chã. Ông đưa lá thư cho Dũng.
Dũng đọc đi đọc lại, bàn tay run lẩy bẩy. Mỗi dòng chữ như một nhát dao cứa vào lòng. Người anh mà anh từng căm giận vì đã ch.iếm đoạt Lan, người mà anh tưởng đã “c.ướp đi” một phần đời mình… hóa ra lại mang trong tim một nỗi đau lớn hơn gấp bội.
T.ối hô.m đó, Dũng thắp hương cho anh trai. Anh quỳ rất lâu trước di ảnh Hùng, rồi quay sang Lan, nói một câu ngắn ngủi:
– Từ mai, em kh.ông còn là vợ chung nữa. Em là vợ của anh. Và con chúng ta, dù là máu mủ ai, cũng sẽ mang họ Nguyễn – họ của anh.
Lan bật k.hóc.
**
Tháng sau, ông Tám m.ất vì tai bi.ến. Dường như ông đã chờ đủ để thấy hai đứa con mình “trả lại” t.ình nghĩa cho nhau, rồi mới yên tâm ra đi. Trong lễ tang, Lan mang bụng b.ầu năm tháng, Dũng đứng cạnh, tay kh.ông rời cô nửa bước.
Nhiều năm sau, đứa b.é g.ái ra đời – tên là Hiếu An. Dũng kể với con rằng: “Con mang tên cha – người đã nhường mọi điều t.ốt đẹp nhất cho ba. Và cũng mang cả lòng an yên mà mẹ con chưa từng có.”
Hiếu An lớn lên trong vòng tay của một người cha dượng mà chưa từng dượng, một người mẹ từng chịu thiệt thòi, và trong ký ức nhòe mờ về một người đàn ông có đôi mắt rất buồn – là Hùng.
Câu chuyện về hai anh em lấy chung một vợ rồi m.ất đi một người kh.ông bao giờ còn được kể lại như trò cười. Mà là như một bi kịch lặng thầm, để đời sau rút ra bài học: nghèo kh.ông đáng sợ, đáng sợ nhất là để cái nghèo c.ướp đi lòng yêu thương.